Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ Eugène de Savoie-Carignan

Trận giải vây Viên ngày 12 tháng 9 năm 1683.

Tháng 5 năm 1683, mối đe dọa từ người Thổ với Viên – đế đô Đế quốc La Mã Thần thánh – đã trở thành hiện thực. Được sự khích lệ của lực lượng khởi nghĩa Hungary do Imre Thököly cầm đầu, Thừa tướng Thổ Kara Mustafa Pasha đem 10–20 vạn quân xâm lược Hungary thuộc Áo.[1] Đến tháng 7 năm 1683, 9 vạn quân chủ lực của Kara Mustafa đã áp sát chân thành Viên. Tình huống cấp bách này buộc Hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold I phải chạy sang lánh nạn ở Passau trên thượng lưu sông Donau.[2] Eugène đã đến doanh trại của Leopold I vào giữa tháng 8 năm 1683.

Dù Eugène không phải người gốc Áo, Leopold I đã cho ông vào quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh vì những lý do sau: Eugène có dòng máu họ Habsburg trong lai lịch của mình Ông nội Eugène là Tommaso Francesco, tiên tổ nhánh Carignano họ Savoia/Savoie, là con của Catherine Michelle – con gái vua Felipe II nhà Habsburg bên Tây Ban Nha – và là chắt của Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V. Nhưng hơn thế nữa Eugène là em con chú của Quận công Vittorio Amadeo xứ Savoie – một kẻ thù lớn của vua Pháp, nên Leopold I tin rằng mối quan hệ này sẽ giúp ích của ông ta trong các cuộc tranh hùng với Pháp sau này.[3] Thêm vào đó, dáng vẻ và phong thái khắc khổ của Eugène đã làm đẹp lòng Leopold I và các đại thần đạm bạc của ông ta.[3][4] Dù Eugène ưa chuộng tiếng Pháp, ông thưa thỉnh với Leopold I bằng tiếng Ý vì biết vị hoàng đế này rất ghét tiếng Pháp (dù giỏi ngôn ngữ nào). Eugène cũng có kỹ năng tiếng Đức khá vững, giúp ông dễ dàng làm việc trong quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh.[5] Eugène đã thề với Leopold rằng "Tôi xin cống hiến mọi sinh lực, lòng dũng cảm và nếu cần thiết, cả giọt máu cuối cùng của tôi, để phò tá Hoàng đế Bệ hạ".[6]

Lời thế này ngay lập tức được đưa vào thử nghiệm. Tháng 9 năm 1683, quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh do quận công Karl V xứ Lothringen chỉ huy, cùng một đội quân hùng hậu của Ba Lan do vua Jan III Sobieski chỉ huy, đã hoàn tất việc chuẩn bị tập kích quân đội Ottoman. Buổi sáng ngày 12 tháng 9, liên quân Cơ Đốc giáo dàn trận tuyến trên các sườn dốc phía đông-nam quần thể rừng Wienerwald, từ trên đó họ ào xuống tấn công doanh trại khổng lồ của địch. Sau một ngày giao chiến, liên quân Ba Lan - quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh đã đánh tan đạo quân của Mustafa Kasha và đặt dấu chấm hết cho 60 ngày quân Ottoman vây khốn Viên. Sử liệu cho biết Eugène đã chiến đấu dũng cảm trong trận đánh, được cả quận công Lothringen và hoàng đế La Mã Thần thánh ngợi khen. Sau này ông được phong hàm Đại tá danh dự Trung đoàn Long kỵ binh Kufstein.[7]

Liên minh thần thánh

Trận tái chiếm thành Buda năm 1686, tranh của Gyula Benczúr.

Sau thắng lợi ở Viên, tháng 3 năm 1684, vua Leopold I khởi lập Liên minh thần thánh cùng Ba LanVenezie diệt trừ "rợ Thổ" (Ottoman). Eugène tham gia các chiến dịch đánh Thổ trong 2 năm kế tiếp; ông thường chiến đấu có phong độ và bản lĩnh. Bởi vậy mà cuối năm 1685, ông lên quân hàm Thiếu tướng lúc chỉ mới 22 tuổi. Tuy nhiên, sử sách không ghi chép nhiều về cuộc đời của Eugène trong giai đoạn này. Các quan sát viên đường thời chỉ nhận xét sơ sài về các hoạt động của ông; còn thư từ của ông trong thời gian đó (phần nhiều là gửi cho người em họ (Vittorio Amedeo), tuy là đến nay vẫn tồn tại, nhưng không tiết lộ nhiều về cảm xúc và trải nghiệm của ông.[8] Dù gì, người nay cũng được biết rằng Baden có ấn tượng tốt với tài nghệ của Eugène và đã ra một nhận xét đắt giá: "Chàng trai này, ngày sau, sẽ đứng một chân trong số những người được thế giới khen là nhà điều binh vĩ đại".[9]

Chân dung Max Emanuel (1662–1726) qua nét vẽ của Joseph Vivien. Đây là Tuyển hầu tước Bayern, trước là thầy Eugène, sau là địch thủ của ông trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha.

Tháng 9 năm 1686, quận công Lothringen tiến binh vây Buda (Budapest), cơ quan đầu não của chính quyền đô hộ Ottoman trên đất Hungary. Sau 78 ngày giao tranh, ngày 2 tháng 9 thành phố thất thủ. Quân Liên minh thắng trận ruổi dài tới tận TransylvaniaSerbia. Tiếp đó, năm 1687, Eugène cầm một lữ đoàn kỵ binh lập công lớn trong trận Mohács, giáng quân Thổ đại bại. Thất bại này làm tinh thần quân Thổ tụt dốc, đưa tới một cuộc binh biến của quân đội Thổ; cuộc binh biến này lan tràn tới tận quốc đô Constantinopolis. Tướng sĩ nổi dậy giết cả thừa tướng Suleiman Pasha và phế bỏ vua Mehmed IV.[10] Một lần nữa, lòng dũng cảm của Eugène được các quan trên đánh giá cao, họ còn cho ông được tự tay đưa tin chiến thắng tới Viên.[11] Ngoài ra, ông được thăng cấp Trung tướng vào tháng 11 năm 1687. Chưa hết, vua Tây Ban Nha Carlos II ban huân chương hiệp sĩ Goldenen Vlies cho Eugène, còn Vittorio Amedeo thưởng ông nhiều tiền và hai tu viện có giá trị ở Piedmont.[12] Tuy nhiên, sự nghiệp chiến trận của Eugène tạm bị thụt lùi vào năm 1688: ngày 6 tháng 9 năm này, ông bị súng điểu thương địch bắn trúng đầu gối khi đang cùng các cánh quân khác vây thành Beograd. Phải tới tháng 1 năm 1689, ông mới trở lại phục vụ tích cực trong quân đội.[12]

Sự gián đoạn từ hướng tây: Chiến tranh Chín năm

Bài chi tiết: Chiến tranh Chín năm

Đang lúc quân đội La-Đức do Max Emmanuel chỉ huy hạ thành Beograd ở hướng đông, vua Pháp Louis XIV sai quân vượt sông Rhein uy hiếp mặt tây của đế quốc La-Đức. Louis XIV nghĩ người Đức đang bận đánh Thổ, nên không cần tốn nhiều binh lực sẽ ép họ nhường bộ cho những tham vọng bá quyền và lãnh thổ của ông. Thực ra, động thái sinh sự của Louis chỉ làm tăng thêm sự quyết tâm giữ vững mặt tây của người Đức. Tháng 5 năm 1689, Leopold I ký hiệp ước với Hà Lan chung sức đánh Pháp, mở màn chiến tranh Chín năm.[13]

Cuộc chiến này là một trải nghiệm chán chường về mặt cá nhân và nghiệp vụ của Eugènee. Thoạt tiên ông chiến đấu trong quân của Max Emmanuel ở mặt trận sông Rhein, bị thương nhẹ vào đầu trong trận vây Mainz năm 1689. Năm 1690, Vittorio Amadeo nhập cuộc liên minh chống Pháp, Eugène được thuyên chuyển sang Piedmont giúp em họ mình. Ông lên lon Thượng tướng kỵ binh, đến Torino cùng bạn là viên tướng gốc Pháp Charles-François de Lorraine, chỉ để nhận một khởi đầu xui xẻo. Vittorio Amadeo đòi đánh quân Pháp do thống chế Nicolas Catinat chỉ huy ở Staffarda. Eugène thấy không lợi, bèn can ngăn, nhưng Amadeo không nghe. Kết quả là quân Liên minh bị quân Pháp đánh thua tan tác, chỉ may có Eugène khéo dẫn dắt kỵ binh Savoie rút lui nên mới ngăn được quân Pháp tiêu diệt hoàn toàn quân Amadeo.[14] Trong thời gian tới, Eugène vẫn luôn có ấn tượng tiêu cực về các tướng sĩ ở Ý. Ông từng báo về Viên: "Nếu mọi người đều làm tốt phận sự, địch đã thua từ lâu lắm rồi".[15] Đặc biệt, ông rất chán nản viên chỉ huy La-Đức Antonio Caraffa, và điếu này khiến ông từng dọa giải ngũ khỏi quân đội La-Đức.[16]

kinh sư, triều đình nghĩ Eugène đang tuổi trẻ còn kiêu rông, nhưng hoàng đế lại rất trân trọng sự tâm huyết của ông đối với quân đội La-Đức. Năm 1693, vua phong Eugène làm Thống chế (mặt khác, việc này nói lên sự thiếu hụt tướng giỏi của La-Đức hơn là tài thao lược của Eugène; quân La-Đức chỉ có hơn 20 thống chế tại ngũ).[17] Năm 1694, người thay Caraffa là Aeneas de Caprara cũng bị thuyên chuyển. Có lẽ đây là lúc để Eugène trổ tài đánh, đánh cho quân Pháp những trận ra trò. Nhưng Amadeo giờ đã quá mất niềm tin vào chiến thắng. Ông này còn sợ nhà Habsburg vươn vòi rồng ảnh hưởng sang Ý hơn cả sợ người Pháp; vì vậy, Amadeo âm thầm thương lượng với Louis XIV để đưa Savoie khỏi cuộc chiến. Đến năm 1696, Amadeo trở giáo theo Pháp. Từ đây, Eugène không bao giờ tin tưởng hoàn toàn Amadeo nữa; ông vẫn tỏ ra vị nể Amadeo vì đây là người đứng đầu Savoie, nhưng quan hệ giữa hai người không còn gắn bó như trước nữa.[18]

Trong chiến dịch ở Ý, vinh quang quân sự phần nhiều thuộc về thống chế Pháp Catinat, nhưng Eugène là tướng duy nhất của Liên minh có tên tuổi đi lên sau chiến tranh Chín năm.[18] Tháng 9-10 năm 1697, Lepold I ký Hiệp ước Ryswick với Pháp, chiến tranh kết thúc bất phân thắng bại. Từ đây Leopold có thể dồn hết quân sang trừ họa xâm lược của người Thổ ở phía Đông.

Trận Zenta

Trận Zenta qua tranh vẽ của Jacques Parrocel.

Thừa lúc Áo đang bận đánh Pháp, quân Ottoman tấn công chiếm lại Beograd năm 1690. Sang tháng 8 năm sau, triều đình Áo sai hầu tước Ludwig xứ Baden mở cuộc phản công đánh tan quân Ottoman trong trận Slankamen trên sông Donau, giành lại các vùng đất bị mất ở Hungary và Transylvania.[19] Tuy nhiên, Baden được điều sang đánh Pháp ở Tây Âu năm 1692 và các tổng chỉ huy kế tiếp của quân đội La-Đức là Caprara (tại nhiệm 1692-1696) và tuyển hầu tước Friedrich August xứ Sachsen (tại nhiệm 1696-1697) không giành được một thắng lợi đủ sức thuyết phục vua Ottoman đầu hàng. Nghe lời khuyên của Tổng lý quân vụ Rüdiger Starhemberg, vua Áo cử Eugène làm tổng tư lệnh quân đội Đế quốc La-Đức vào tháng 4 năm 1697.[20] Trên vai trò thống lĩnh toàn quân, Eugène có toàn quyền quyết định, không còn bị bị làm khó dễ bởi những ông tướng thận trọng quá mức như Caprara và Caraffa, và cũng không còn lệ thuộc vào bởi một người dùng binh kém như Victor Amadeus. Nhưng ông nhận ra rằng tổ chức và năng lực chiến đấu của quân đội Đế quốc La-Đức "tồi tệ đến mức không thể tả nổi".[21] Lòng tự tin và quyết tâm của Eugène, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Commercy và Guido Starhemberg) đã giúp tân tổng tư lệnh dần dần khôi phục trật tự và kỷ luật quân đội La-Đức.[22]

Chân dung Vương công Eugène xứ Savoie (1663–1736), thực hiện bởi Trường phái Vlaandereng khoảng năm 1700.

Leopold I đã khuyên Eugène nên ứng xử thận trọng, nhưng sau khi nghe tin hoàng đế Thổ Mustafa II tiến đánh Transylvania, Eugène dứt bỏ tất cả mọi ý tưởng về một chiến dịch phòng ngự và điều quân đi đón đầu quân Ottoman khi họ vượt sông Tisza tại Zenta ngày 11 tháng 9 năm 1697. Sau đó, Eugène xếp quân theo hình bán nguyệt và bất ngờ tấn công lực lượng Ottoman đang vượt sông.[23] Các đòn tiến công ào ạt của người Áo và chư hầu Đức đã xé tan đội hình quân Ottoman và làm họ tháo chạy hỗn loạn về điểm xuất phát. Trận đánh kết thúc khi đêm xuống với thắng lợi triệt để của quân đội Đế quốc La-Đức. Quân Eugène chết và bị thương khoảng 2 nghìn người, nhưng đã xóa sổ được 25 nghìn quân Ottoman – trong đó có thừa tướng Elmas Mehmed Pasha – và làm tan rã số quân còn sót của Mustafa II.[24] Mặc dù quân đội Thổ Ottoman khá lạc hậu so với các quân đội phương Tây về huấn luyện và tổ chức, chiến thắng Zenta đã chứng tỏ tài nghệ thao lược, tư duy quân sự táo bạo và và khả năng truyền động lực cho tướng sĩ chiến đấu, chinh phục một kẻ thù đáng gờm.[25]

Sau trận Zenta, Eugène xua quân truy kích vào vùng Bosnia thuộc Ottoman và đốt phá thành phố Sarajevo. Đến tháng 11 năm 1697, Eugène ca khúc khải hoàn về thành Viên.[26] Chiến thắng của quân đội La-Đức do Eugène lãnh đạo ở Zenta đã biến ông thành một anh hùng châu Âu, và khiến ông được vua Leopold I ban thưởng một điền trang tại Hungary. Điền trang này đã mang lại cho ông một nguồn thu nhập đáng kể, tạo điều kiện cho ông trau dồi sở thích của mình với nghệ thuật và kiến trúc. Nhưng bên cạnh sự vinh hoa phú quý mà ông mới có được, Eugène giờ đây là một người cô độc, hầu như không có bạn bè và không còn một bà con họ hàng nào: trong 4 anh trai của ông, chỉ có một người duy nhất còn sống vào thời điểm đó. Người anh thứ tư của ông là Emmanuel đã chết năm 1676 khi mới 14 tuổi; người thứ 3 là Louis Julius đã chết trong quân ngũ năm 1683, và người thứ 2 là Philippe chết do đậu mùa năm 1693. Người anh còn sót của Eugène là Louis Thomas do bất hòa với Louis XIV nên bị ông ta trục xuất khỏi Pháp. Louis Thomas phải đi khắp châu Âu để tìm kiếm sự nghiệp. Năm 1699, Louis Thomas đến Viên, và nhờ Eugène nâng đỡ nên được tuyển mộ vào quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh. Louis Thomas bỏ mạng khi chiến đấu với quân Pháp năm 1702. Trong các chị gái của Eugène, người nhỏ nhất đã chết từ khi còn thơ ấu. Hai người còn lại là Marie Jeanne-Baptiste và Louise Philiberte phải lưu lạc ở Bỉ, Thụy Sĩ và Savoie sau khi bị đuổi khỏi Pháp, và đều có đời sống phóng đãng; Marie chết yểu năm 1705 và Philibert chết năm 1726.[27]

Trận Zenta đã trở thành thắng lợi quyết định của Áo và chư hầu Đức trong đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ. Thấy vua Tây Ban Nha Carlos II đang sắp băng mà không có con nối dõi, Leopold I ký hòa ước Karlowitz chấm dứt chiến tranh với vua Ottoman ngày 26 tháng 1 năm 1699, hòng rảnh tay tập trung vào việc tranh đoạt quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha.[28]